Viêm Gan B Ở Trẻ Em
Bệnh viêm gan B ở trẻ em được xem là nỗi ám ảnh lớn với các bậc cha mẹ, bởi đây là căn bệnh nguy hiểm do virus HBV gây ra. Nó không chỉ có khả năng gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, mặt khác biểu hiện lâm sàng và phương pháp điều trị ở trẻ em cũng phức tạp hơn người lớn rất nhiều. Chính vì vậy, cha mẹ cần trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết để bảo vệ sức khỏe cho con một cách an toàn và toàn diện nhất.
Định nghĩa
Viêm gan B ở trẻ em là bệnh truyền nhiễm về gan có mức độ nguy hiểm cao, nó có khả năng gây ra nhiễm trùng tế bào gan khiến cho những tế bào này nhanh chóng bị tổn thương và suy giảm chức năng. Hơn thế nữa, bệnh còn tiềm ẩn nguy cơ gây ra các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí là đe dọa đến tính mạng người bệnh.
Theo nhiều kết quả nghiên cứu, viêm gan siêu vi B chính là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới nguy cơ mắc bệnh xơ gan, suy gan mãn tính và ung thư gan. Bệnh có thể tiến triển và lây nhiễm trên bất kỳ đối tượng nào, trong đó bao gồm cả trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Trong trường hợp người lớn mắc viêm gan B, việc điều trị sẽ được áp dụng các phương pháp chuyên sâu, nhằm loại bỏ virus ra khỏi cơ thể hoặc khiến chúng trở về thể bất hoạt. Tuy nhiên, nếu bệnh tiến triển trên trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và một số trường hợp đặc biệt ở người lớn, virus viêm gan B khi này thường rất khó loại bỏ, quá trình điều trị kéo dài, không thể chữa dứt điểm bệnh.
Hình ảnh
Triệu chứng
Khi cơ thể bị nhiễm virus HBV, trẻ có thể mang virus, tuy nhiên thường không có triệu chứng hay biểu hiện gì đặc biệt, trẻ vẫn học tập, vui chơi, sinh hoạt và phát triển bình thường. Chỉ khi gặp các điều kiện thuận lợi như sức khỏe giảm sút, sức đề kháng yếu, nhiễm trùng nặng… virus sẽ phát triển mạnh mẽ và gây ra các đợt viêm gan cấp, kèm theo một số triệu chứng phổ biến như:
Giai đoạn trước khi xuất hiện biểu hiện vàng da
Từ 7 đến 10 ngày trước khi phát sinh triệu chứng vàng da, viêm gan B ở trẻ em thường có một số dấu hiệu, triệu chứng giả cúm. Cụ thể là: Chảy nước mũi, cơ thể mệt mỏi, buồn nôn, chán ăn, sốt, táo bón hoặc tiêu chảy, đầy bụng, phân bạc màu, tức vùng hạ sườn phải, gan có thể to, nước tiểu sẫm màu…
Cha mẹ khi phát hiện cơ thể con xuất hiện những dấu hiệu nêu trên, cần đưa trẻ tới ngay phòng khám chuyên khoa gan, bệnh viện uy tín để kiểm tra, thực hiện các xét nghiệm cần thiết và áp dụng phương pháp điều trị thích hợp, kịp thời.
Giai đoạn xuất hiện biểu hiện vàng da
Tới giai đoạn xuất hiện triệu chứng vàng da, trẻ có thể kèm theo một số biểu hiện nghiêm trọng như:
- Nước tiểu bị sẫm màu.
- Vàng da, vàng niêm mạc mắt.
- Trên da xuất hiện một số mảng chấm hoặc xuất huyết do suy giảm chức năng gan gây ra.
- Gan bị to bất thường, có cảm giác đau khi ấn, tác động vào, đau tức vùng hạ sườn phải (đối với trẻ lớn), có thể gặp tình trạng lá lách to (tuy nhiên tiên lượng xấu nên kích thước gan thu nhỏ).
- Bụng có dấu hiệu trướng nhẹ, đi ngoài phân có bám kèm chất nhầy như mỡ, trẻ kém ăn, biếng ăn.
Nguyên Nhân
Chúng ta đều biết, viêm gan B lây nhiễm do virus HBV thông qua 3 con đường chính là: Đường máu, đường tình dục và từ mẹ sang con. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu khiến trẻ mắc viêm gan B chủ yếu là do từ mẹ sang con. Đặc biệt, tại Việt Nam kiến thức của người dân về căn bệnh này còn hạn chế, chưa được tiêm phòng đầy đủ. Nhiều phụ nữ chưa được tầm soát bệnh trước và trong khi mang thai, do đó mà các nghiên cứu đã chỉ ra có hơn 10% phụ nữ mang thai bị nhiễm virus viêm gan B, đây là một tỷ lệ vô cùng lớn.
Nếu phụ nữ bị viêm gan B ở thời kỳ đầu của thai kỳ (3 tháng đầu tiên) thì tỷ lệ mẹ truyền bệnh cho con ở mức khá thấp (khoảng 1%). Nếu mẹ bị bệnh vào 3 tháng giữa của thai kỳ thì tỷ lệ này lên đến 10%, đặc biệt là vào 3 tháng cuối thai kỳ khả năng truyền bệnh cho con là 60 - 70%.
Trên thực tế, có khoảng 90% trẻ em bị nhiễm bệnh trong giai đoạn sơ sinh, nguyên nhân là do virus có trong máu, dịch tiết cơ thể của mẹ lúc này rất dễ truyền cho trẻ. Đặc biệt, trẻ sơ sinh với hệ miễn dịch chưa hoàn chỉnh thường không có sức đề kháng để chống lại virus. Chính vì vậy, bệnh sẽ dễ dàng phát triển mạnh mẽ và chuyển sang giai đoạn mạn tính nguy hiểm và chưa có biện pháp chữa khỏi. Đồng thời, trẻ sơ sinh bị viêm gan B có nguy cơ cao biến chứng thành xơ gan, ung thư gan ở tuổi trưởng thành.
Ngoài con đường lây nhiễm từ mẹ sang con, trẻ cũng có thể bị viêm gan B nếu tiếp xúc với máu của người nhiễm bệnh. Trong đó phải kể đến như: Khi bú mẹ mà đầu vú mẹ và miệng trẻ xuất hiện vết thương hở, khi tiếp xúc, dùng chung đồ dùng cá nhân có nguy cơ dính máu, dịch cơ thể của người bệnh…
Trong thời gian từ 2 - 3 tuần kể từ khi bệnh viêm gan B xuất hiện, trẻ có thể giảm triệu chứng sốt và vàng da. Ngoài ra, một số triệu chứng kể trên cũng có xu hướng nhẹ dần, nước tiểu trong, trẻ ăn uống ngon miệng hơn.
Đối với trẻ ở độ tuổi sơ sinh, các biểu hiện của bệnh viêm gan siêu vi B có thể không rõ ràng, dễ khiến nhầm lẫn với một số bệnh lý thông thường khác. Đôi khi trẻ chỉ xuất hiện dấu hiệu vàng da, bú kém, khiến cha mẹ chủ quan, không phát hiện ra bệnh kịp thời. Từ đó làm phát sinh thêm nhiều vấn đề nghiêm trọng, gây ra hậu quả nặng nề như bệnh suy gan, xuất huyết não…
Giai đoạn trẻ bị viêm gan B mạn tính
Trong trường hợp trẻ bị viêm gan B mà chỉ số HBsAg (kháng nguyên bề mặt) xuất hiện trong máu trên 6 tháng thì được xác định là bị viêm gan B mạn tính. Ở thể này được đặc trưng bởi 4 thời kỳ miễn dịch của bệnh, cụ thể:
Giai đoạn 1: Phát hiện ra HBsAg và HBeAg
- Định lượng HBV DNA đo được cao hơn 100.000 copies/ml.
- Các chỉ số men gan là ALT và AST ít hơn hoặc không thay đổi, vẫn nằm trong giới hạn bình thường.
- Không xuất hiện dấu hiệu bị xơ gan và viêm gan hoặc phát sinh với mức độ rất nhẹ.
Giai đoạn 2: HBsAg và HBeAg vẫn còn xuất hiện
- Định lượng HBV DNA đo được cao hơn 100.000 copies/ml.
- Các chỉ số men gan là ALT và AST có dấu hiệu tăng liên tục.
- Tình trạng viêm gan và xơ gan có thể tiến triển nặng.
Giai đoạn 3: Chỉ số HBsAg vẫn tồn tại
- Xuất hiện anti-Hbe còn HBeAg biến mất.
- Định lượng HBV DNA đo được thấp hơn 100.000 copies/ml hoặc hoàn toàn không phát hiện thấy.
- Các chỉ số men gan là ALT và AST đều ở mức bình thường, ổn định.
- Các dấu hiệu xơ gan sẽ dần thoái lui, không có dầu hiệu và triệu chứng của viêm gan.
Giai đoạn 4: Chỉ số HBsAg vẫn còn xuất hiện
- Kết quả xét nghiệm chỉ ra anti-Hbe vẫn dương tính còn HBeAg âm tính.
- Định lượng HBV DNA đo được thấp hơn 100.000 copies/ml.
- Các chỉ số men gan là ALT và AST có dấu hiệu tăng hoặc ở mức bình thường.
- Viêm gan có thể tấn công, mặt khác cũng có nhiều khả năng dẫn tới xơ gan.
Phòng ngừa
Nếu mẹ bị nhiễm viêm gan B khi mang thai hoặc thấy trẻ nhỏ sau khi sinh ra có biểu hiện của bệnh viêm gan siêu vi B, cha mẹ cần nhanh chóng đưa con tới các phòng khám chuyên khoa gan hoặc bệnh viện uy tín để thăm khám và làm xét nghiệm. Trong trường hợp kết quả chẩn đoán cho thấy bé dương tính với virus HBV, cha mẹ cần tuân thủ theo lời khuyên của bác sĩ và cho con điều trị theo đúng phác đồ bác sĩ đưa ra. Bởi bệnh rất dễ phát triển và chuyển sang thể mạn tính ở trẻ nhỏ.
Bên cạnh đó, trẻ cũng cần được thăm khám sức khỏe định kỳ, nhằm theo dõi tình trạng bệnh. Đồng thời kiểm tra sức khỏe tổng thể và sớm có biện pháp điều trị thích hợp, kịp thời nếu phát hiện ra dấu hiệu, nguy cơ của bệnh.
Để có thể phòng ngừa hiệu quả và an toàn viêm gan B ở trẻ, cha mẹ cần cho con tiêm vacxin phòng bệnh càng sớm càng tốt. Theo khuyến cáo, trẻ nên được tiêm vacxin và kháng thể globulin chống HBV (nếu có mẹ bị nhiễm viêm gan B) trong vòngBệnh viêm gan B ở trẻ em được xem là nỗi ám ảnh lớn với các bậc cha mẹ, bởi đây là căn bệnh nguy hiểm do virus HBV gây ra. 24 giờ đầu sau sinh. Thời gian sau sẽ tiêm đủ mũi theo đúng với phác đồ của bác sĩ đưa ra, cụ thể mũi thứ 2 khi được 1 tháng tuổi, mũi thứ 3 khi được 2 tháng tuổi và mũi nhắc lại khi đủ 12 tháng tuổi.
Viêm gan B ở trẻ em là bệnh lý nguy hiểm, bởi nó dễ dàng chuyển sang thể mạn tính, gây ra những biến chứng và có tỷ lệ tử vong cao. Chính vì vậy cha mẹ không nên chủ quan, thay vào đó cần chủ động theo dõi sức khỏe của bản thân và trẻ nhỏ, đồng thời sớm có biện pháp phòng ngừa lây nhiễm thích hợp, an toàn, hiệu quả.
Biện pháp điều trị
Để có được phương pháp điều trị viêm gan B ở trẻ nhỏ hiệu quả, an toàn, các bác sĩ chuyên khoa sẽ xem xét và dựa trên những trường hợp cụ thể như:
Những trường hợp nên điều trị viêm gan B cho trẻ
Đối với những trường hợp trẻ bị viêm gan B mạn tính, trẻ nhỏ cần được giám sát, theo dõi thường xuyên và chặt chẽ nhằm kiểm soát tốt sự tiến triển của bệnh. Cụ thể trẻ sẽ được khám lâm sàng, thực hiện và đánh giá kết quả xét nghiệm huyết thanh của HBV DNA, anti HBe, HBsAg, HBeAg, ALT và AFP.
Bên cạnh đó, trẻ cũng sẽ được chỉ định thực hiện một số xét nghiệm gồm có đầy đủ thông tin về tiểu cầu và chức năng gan định kỳ. Nếu kết quả cho thấy tỉ lệ của chỉ số AST trên ALT tăng là một trong những dấu hiệu cảnh báo chứng xơ hóa đang dần tăng cao. Đặc biệt là khi chỉ số AST trong máu trở nên lớn hơn so với chỉ số ALT.
Đối với những trẻ bị viêm gan B mạn tính, nếu có chỉ số AST lớn hơn ALT thì trẻ có nguy cơ cao mắc bệnh xơ gan. Tuy nhiên, để củng cố cho kết quả đánh giá này, bệnh nhi sẽ có thể phải làm thêm sinh thiết gan.
Trong nhiều trường hợp khác, chỉ số AST cao hơn so với ALT có thể xuất hiện thoáng qua ở những trẻ được đo sau khi vận động hay hoạt động thể chất nặng hoặc có tiêu thụ rượu bia trong thời gian gần. Trước khi tiến hành tìm ra các dấu hiệu gan bị xơ hóa tiến triển do virus viêm gan, thì những nguy cơ, khả năng cần phải được xác định và loại trừ.
Trong huyết thanh, chỉ số men gan ALT có dấu hiệu tăng cao cho thấy mức độ tổn thương của gan và khả năng hoại tử của tế bào gan. Đối với người lớn, chỉ số này vượt ngưỡng giới hạn bình thường là khi cao hơn 19 IU/L ở nữ giới và trên 30 IU/L ở nam giới.
Tuy nhiên, đối với trẻ nhỏ ULN vẫn chưa được thiết lập, ULN được sử dụng ở trẻ nhỏ thường thay đổi dựa vào độ tuổi và theo các phương pháp xét nghiệm. Trong trường hợp không có tiêu chuẩn cho trẻ, chỉ số ALT được nâng lên mức trên 40 IU/L hoặc lớn hơn nồng độ các ULN tại phòng xét nghiệm.
Trường hợp nồng độ men gan ALT trong huyết thanh bình thường
Đối với quá trình điều trị viêm gan mạn tính ở trẻ nhỏ, việc cân nhắc, xác định những đối tượng không cần áp dụng phương pháp điều trị cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Phần lớn các bệnh nhi bị nhiễm viêm gan siêu vi B chu sinh vẫn ở thể nhẹ, vẫn còn ở trong giai đoạn 1 và thường kéo dài cho tới tuổi trưởng thành.
Đối với những trường hợp trẻ bị nhiễm virus HBV genotype C (virus HBV có chứa 8 genotype từ A đến H) sẽ có thời gian nhiễm bệnh viêm gan siêu vi B chu sinh giai đoạn 1 kéo dài nhất. Mặt khác, tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh HBeAg là rất thấp đối với các bệnh nhi bị nhiễm virus HBV genotype C.
Những trẻ bị nhiễm virus HBV genotype C khi xét nghiệm luôn cho kết quả HBeAg dương tính, đồng thời HBV DNA đo được cao hơn 100.000 copies/ml. Thế nhưng hoạt động đáp ứng miễn dịch gây ra viêm gan B không được xác định và chỉ số men gan ALT trong máu duy trì ở mức ổn định. Theo như kết quả công bố dữ liệu lâm sàng, quá trình hỗ trợ đối với những bệnh nhi trong giai đoạn này thường không được thiết lập hoặc rất hạn chế.
Trường hợp nồng độ men gan ALT trong huyết thanh tăng cao liên tục
Nồng độ men gan ALT có trong huyết thanh tăng cao cho thấy sự hoại tử của tế bào gan. Trong đó có hai giai đoạn viêm gan siêu vi B được đặc trưng bởi nồng độ ALT huyết thanh tăng cao liên tục là:
- Nồng độ ALT trong huyết thanh lớn hơn 60 IU/L hoặc cao hơn 1,5 lần ULN thì trẻ cần được làm xét nghiệm nhằm đánh giá mức độ mô học của gan và nồng độ HBV DNA. Qua đó để xem xét quá trình điều trị và xác định được phương pháp phù hợp nhất.
- Nồng độ ALT trong huyết thanh của trẻ thấp hơn 60 IU/L hoặc nhỏ hơn 1,5 lần ULN. Nếu có HBeAg âm tính thì trẻ cần được theo dõi trên 3 lần trong ít nhất 1 năm, đồng thời theo dõi hơn 2 lần trong 6 tháng nếu HBeAg dương tính.
Mục đích của việc theo dõi nồng độ huyết thanh ALT ít nhất trong 6 tháng ở những trẻ có ALT tăng liên tục và HBeAg dương tính, nhằm phòng ngừa chữa bệnh cho trẻ tự phát HBeAg huyết thanh và viêm gan siêu vi B được cải thiện mà không cần phải áp dụng các phương pháp điều trị.
Điều trị lâu dài với những trường hợp đặc biệt
Trong một số trường hợp đặc biệt, trẻ cần được tiến hành điều trị lâu dài đó là:
- Trẻ bị xơ gan (xơ gan còn bù hoặc thể xơ gan mất bù).
- Trẻ có chức năng gan suy giảm nhanh chóng.
- Trẻ gặp các biến chứng viêm cầu thận do nhiễm virus viêm gan B.
- Trẻ bị nhiễm virus HBV tái phát sau khi được ghép gan.
- Tìm thấy sự xuất hiện của các chủng virus (HBV/ HDV, HBV/HCV, HBV/HIV) ở trẻ.
- Những trẻ có tiền sử gia đình mắc phải chứng ung thư tế bào gan.
- Trẻ có mẹ khi mang thai lượng virus đo được trong quý 3 tăng cao (trên 20.000.000 IU/ml).
Câu hỏi thường gặp
Đối với trẻ sơ sinh:
- Trẻ sinh ra từ mẹ không bị nhiễm viêm gan B: Tiêm 3 mũi vắc-xin viêm gan B theo lịch trình 0-2-4 tháng.
- Trẻ sinh ra từ mẹ bị nhiễm viêm gan B: Tiêm 4 mũi vắc-xin viêm gan B theo lịch trình 0-1-2-12 tháng.
Đối với người lớn:
- Chưa từng bị nhiễm viêm gan B: Tiêm 3 mũi vắc-xin viêm gan B theo lịch trình 0-1-6 tháng.
- Đã từng bị nhiễm viêm gan B: Không cần tiêm vắc-xin.
- Chuyên gia
- Cơ sở